Chương 7: Người ấy, có phát không?
Người ta bảo, có những cuộc gặp gỡ không cần phô trương, chỉ cần một ánh mắt là đủ hiểu lòng nhau. Nhưng trong trường hợp của tôi, ánh mắt đầu tiên ấy là… ánh nhìn như tia laze của chị chủ trọ đang lườm tôi vì dám đem về một anh chàng “lạ hoắc lạ huơ” giữa đêm khuya.
“Thế tóm lại là ai?” Chị hỏi, khoanh tay đứng giữa cửa, mắt đảo từ tôi sang anh, rồi từ anh về tôi, như thể đang soi camera hành trình bắt gian tại trận.
Tôi cười trừ. “Anh ấy… ừm… là hàng xóm mới ạ! Em tình cờ gặp lúc đi đổ rác, thấy trời tối quá nên… dẫn về cho đỡ sợ.”
Chị chủ trọ bĩu môi, rõ ràng là không tin, nhưng cũng chẳng có bằng chứng gì để kết tội. “Mai làm hợp đồng thì làm, ở tạm phòng trống tầng hai đi, nhớ khóa cửa cẩn thận. Dạo này nhiều vụ giả danh hàng xóm để… trộm đồ lắm đấy!” chị cảnh cáo xong quay lưng bỏ đi, nhưng tôi thề là nghe rõ tiếng “chậc chậc” kéo dài tận hai giây rưỡi.
Cửa vừa đóng, tôi thở phào.
“Cảm ơn em.” Anh nhìn tôi, ánh mắt thành khẩn. “Thật sự cảm ơn.”
Tôi xua tay. “Không có gì! Người ta hay bảo, gặp hoạn nạn mới biết lòng người. Nhưng mà… cũng không ngờ lần gặp đầu của mình lại kỳ quặc đến thế.”
Anh cười. “Nếu mai này có kể chuyện tình của mình, chắc em phải bắt đầu bằng: Ngày xưa có một cô gái đi đổ rác…”
Tôi bật cười. “Thế thì phải thêm đoạn: …và vô tình nhặt được một anh hàng xóm đẹp trai về nuôi.”
“Anh không đến mức cần nuôi đâu nhé.” Anh nhướng mày. “Chỉ là… đang thất nghiệp tạm thời.”
“Vậy là còn cần nuôi dài hạn hơn ấy chứ.” Tôi lè lưỡi, rồi bất giác cười khi thấy gương mặt anh đỏ ửng.
Không hiểu sao, ở bên cạnh anh, mọi thứ bỗng nhẹ nhàng như cơn gió. Chẳng có câu tỏ tình nào được nói ra, nhưng cảm giác thân thuộc cứ thế lan dần. Tôi thấy mình muốn hỏi anh thích ăn gì, ngủ mấy giờ, có sợ ma không… Những điều ngớ ngẩn chẳng mấy ai hỏi người lạ, nhưng lại muốn hỏi anh thật nhiều.
Những ngày sau đó, anh chính thức trở thành “người dưng thân thiết” nhất cuộc đời tôi.
Sáng sáng, anh đi bộ cùng tôi ra đầu hẻm mua xôi, trưa trưa rủ nhau đi siêu thị mua rau, tối tối ngồi cạnh nhau dưới sân trọ, nhìn đèn đường và kể mấy chuyện nhạt như nước ốc nhưng cười như thể là chuyện cười năm châu bốn bể.
Tôi phát hiện anh thích uống trà đá không đường, ghét ăn mắm tôm và… không biết gọt xoài.
Một hôm, khi tôi đang hí hoáy gọt xoài cho anh ăn, anh chống cằm nhìn tôi, chậm rãi nói:
“Nếu một ngày anh không còn ở đây nữa, em có nhớ anh không?”
Tôi dừng tay. Lòng chợt nhói lên một thoáng. “Sao anh lại hỏi vậy?”
“Không có gì.” Anh cười nhẹ, ánh mắt chợt lặng đi. “Chỉ là… anh sắp phải rời thành phố này một thời gian.”
“Đi đâu?” Tôi hỏi, dù cố giữ bình tĩnh, tim tôi vẫn như bị dội một gáo nước lạnh.
“Ra Bắc. Có lời mời làm dự án bên Hà Nội. Anh cũng không định đi lâu… nhưng mà, phải thử, đúng không?”
Tôi gật đầu, dù trong lòng như vỡ vụn. Dẫu biết chúng tôi chưa là gì của nhau, nhưng ý nghĩ anh rời đi khiến tôi thấy mất mát kỳ lạ.
“Vậy… mai anh đi à?”
“Ừ. Mai sáng.”
Tôi im lặng. Bầu không khí giữa hai đứa bỗng như chùng xuống, yên lặng đến mức nghe rõ cả tiếng côn trùng đêm hát.
Sáng hôm sau, khi tôi chạy ra cửa, anh đã đi rồi.
Chỉ để lại trên bậu cửa một hộp trà anh từng thích, một mảnh giấy ghi vội:
Cảm ơn em vì đã “phát người yêu” giữa đời thường. Nếu có duyên, nhất định mình sẽ gặp lại không phải như người dưng, mà như người thương.
Tôi đọc đi đọc lại, lòng dở dang, mắt cay cay. Hóa ra người đến nhẹ nhàng, nhưng đi lại để lại một chỗ trống rất lớn trong tim.
Từ hôm đó, tôi vẫn đi qua tiệm xôi quen, vẫn mua đúng phần xôi anh thích. Nhưng không còn ai giành ăn hột đậu, không còn ai cằn nhằn tôi uống trà đường quá nhiều, không còn ai gọt xoài vụng về rồi bị tôi cười trêu.
Chỗ anh ngồi nay chỉ còn lại một bóng nắng sớm lặng lẽ.
Tôi không biết khi nào anh quay lại. Hoặc có khi… anh chẳng quay lại nữa.
Nhưng tôi vẫn giữ hộp trà ấy, vẫn giữ tờ giấy nhỏ ấy, và giữ một niềm tin rất ngốc trong lòng.
Rằng nếu duyên đủ lớn, người từng được tôi “phát” giữa chốn đông người sẽ một lần nữa quay về, và lần này, tôi sẽ không để lạc mất.