CHƯƠNG 2: NHỮNG NGÀY BÊN NHAU
Tôi từng nghe người ta bảo, đàn bà khi yêu giống như kẻ bước xuống một con sông đục ngầu: nước lạnh buốt, đá dưới chân nhọn hoắt, nhưng vì đã lội xuống rồi, nên cứ nhích từng bước, hy vọng sẽ chạm đến bờ bên kia. Còn tôi, suốt quãng thời gian ở cạnh Lượng, chưa một lần dám ngẩng lên nhìn xem bờ ấy có thật sự tồn tại hay không. Tôi sợ. Tôi sợ phải thấy mình đang ngụp lặn giữa đám lục bình mục rữa, vô phương quay đầu.
Sau đêm mưa ấy, tôi để Lượng chính thức sống cùng mình. Thực ra, gọi là “sống cùng” cũng không đúng. Anh ở trọ ngay trong căn nhà tôi thuê được bằng tiền làm ca đêm, làm thêm lễ tân cuối tuần, dạy kèm con của người ta vào buổi trưa. Tôi cõng anh như cõng một thứ trách nhiệm chưa từng thuộc về mình, nhưng tự dưng tôi lại coi đó là lẽ đương nhiên.
Ban ngày, Lượng xin được chân phụ hồ cho công trình gần đó. Ban đêm, anh làm bảo vệ bãi xe, hoặc bốc vác thuê ở chợ đầu mối. Tiền anh đưa tôi cất gọn vào chiếc hộp thiếc tôi vẫn dùng để cất tiền thuốc cho cha. Mỗi lần nhìn đống tiền lẻ lẫn với vài tờ polime nhàu nát, tôi lại cố tự trấn an: “Thôi thì có còn hơn không. Từ từ rồi anh cũng sẽ khá lên.”
Nhưng chờ đợi một người thay đổi cũng giống như đợi mưa rơi ngược trời: nghe thì có vẻ lãng mạn, mà thực tế chỉ có mình ướt. Lượng vẫn đi về bất định. Tôi chẳng thể đếm nổi bao nhiêu đêm mình nằm trằn trọc trên chiếc giường chật chội, tiếng đồng hồ kêu tích tắc như giọt mưa nhỏ đều đều xuống hốc lòng. Tôi chờ tiếng chìa khóa lách cách ngoài cửa. Có hôm gần sáng mới nghe anh lọc cọc bước về, mùi rượu nồng nặc lẫn với mùi son phấn rẻ tiền. Tôi ngồi dậy, đắp lại mền cho anh, chạm tay vào vết bầm nơi cánh tay. Anh thở khò khè, mơ màng nắm tay tôi, lẩm bẩm những câu vô nghĩa.
Đêm nào anh về, tôi coi như may mắn. Đêm nào anh không về, tôi rối bời tưởng tượng anh đang nằm co quắp ở xó vỉa hè nào đó, hay đang cùng ai nốc cạn những thứ ấm áp mà lẽ ra tôi mới là người được giữ.
Có lần, tôi lấy hết can đảm hỏi:
“Anh có người khác rồi đúng không?”
Lượng cười hề hề, ôm lấy vai tôi, bàn tay chai sạn sờ lên cổ tôi như một cách trấn an:
“Em vớ vẩn. Anh yêu em, anh cần gì ai khác. Anh đi với mấy thằng bạn thôi. Gái gú đâu ra.”
Tôi tin. Hay đúng hơn, tôi muốn tin. Bởi nếu tôi không tin, tôi biết tin ai bây giờ?
Những ngày sống bên nhau, tôi chật vật giữa hai chữ “vợ chồng” không bao giờ được xưng gọi thành tên. Chúng tôi không đăng ký kết hôn, không đám cưới. Tôi từng gợi ý:
“Hay mình làm cái đám cưới nho nhỏ, gọi là ra mắt họ hàng.”
Lượng xua tay:
“Cưới xin gì, anh chẳng có đồng nào, làm tội em. Với lại… có tờ giấy cũng vậy thôi.”
Tôi im. Tôi tự lừa mình rằng giấy tờ chẳng quan trọng. Quan trọng là trái tim người ta. Nhưng mỗi lần thấy chị đồng nghiệp khoe chồng đưa đón, gọi điện dặn dò, tôi lại len lén gạt giọt tủi thân.
Nhiều hôm, tôi chạy vạy xoay tiền viện phí cho cha, về tới nhà thì Lượng đã phì phèo điếu thuốc, chân gác lên bàn, mắt dán vào điện thoại. Tôi lén nhìn màn hình dãy tin nhắn lạ, hình avatar con gái với cái tên nghe thôi cũng đủ khiến ngực tôi nhói buốt. Tôi nuốt nước mắt, giả vờ cười, giả vờ hỏi anh ăn gì chưa. Anh “ừ” một tiếng, rồi gắt: “Sao về trễ vậy? Có người đàn ông nào trả tiền nhà cho em đâu mà đi sớm về khuya vậy?”
Câu đó như xát muối vào tim. Người đàn ông ấy đang ngồi ngay đó ai trả tiền nhà cho ai? Tôi cắn răng không nói. Tôi sợ một lời bật ra sẽ chặt đứt sợi dây mà tôi níu suốt bấy lâu.
Mùa mưa năm đó, cha tôi yếu hẳn. Ông rệu rạo đi ra đi vào, chốc chốc lại ho khan, đôi mắt đục ngầu nhìn tôi: “Con à, đừng khổ vì nó nữa.” Tôi nghe rồi làm ngơ.
Ngày cha nhập viện lần đầu vì khó thở, tôi gọi cho Lượng, hy vọng anh sẽ tới. Anh bắt máy, giọng lè nhè: “Anh đang bận. Em tự lo đi.”
Ba chữ “tự lo đi” khiến tôi run rẩy. Tôi tựa trán vào vách tường lạnh ngắt của hành lang bệnh viện, cố kiềm nước mắt. Tôi có thể tự lo, nhưng tại sao trong những lúc như vậy, anh lại không đứng cạnh tôi?
Có bữa tôi về nhà, mệt lả vì chạy tiền thuốc cho cha. Thằng con trai tôi thằng bé tôi sinh ra trong một lần lầm lỡ, năm nay tám tuổi, cứ ngồi co ro ở góc phòng, cầm hộp bút chì gãy đầu mà vẽ những hình nguệch ngoạc. Tôi chợt hiểu ra, thằng bé này, tôi còn chưa hỏi nó muốn sống cùng ai. Tôi ép nó ở với bà ngoại để “thuận tiện” cho tôi chăm sóc Lượng, thuận tiện cho những ảo mộng về mái ấm mà chính tôi còn không nắm nổi.
Một đêm nọ, tôi bạo gan nói với anh:
“Hay anh tính chuyện đón thằng nhỏ về. Nó là con tôi. Anh cũng thương nó mà, đúng không?”
Lượng nhíu mày, phì khói thuốc ra sàn:
“Để nó ở với ông bà đi. Nhà mình chật chội, nuôi nó cực. Vướng víu lắm.”