Skip to main content
Đăng nhập Đăng ký

ĐĂNG NHẬP

Quên mật khẩu

QUÊN MẬT KHẨU

ĐĂNG KÝ MỚI

Tên người dùng:
Mật khẩu:
Email:

CHƯƠNG 1: MẢNH VỠ

7:59 chiều – 22/07/2025

Tôi còn nhớ đêm mưa năm đó, cơn mưa rả rích đổ xuống xóm nhỏ nằm sát con mương đen đặc, nước lênh láng chảy ra từ miệng cống nghẹt rác, cuốn theo đủ mùi tanh tưởi của những gì người ta không buồn giữ lại. Trời tối sầm, chỉ có ánh đèn đường vàng vọt, chiếc bóng người ngồi co ro trước cổng nhà tôi kéo dài, méo mó trên vạt đường ướt.

Người đàn ông ấy, chính là Lượng.

Anh ta không gõ cửa, cũng chẳng gọi tên tôi như thường lệ. Tôi nhớ lúc tôi mở cửa, tiếng bản lề kẽo kẹt nghe rợn người, hơi lạnh táp vào mặt khiến tôi nổi gai ốc. Lượng ngẩng lên, đôi mắt sưng đỏ, áo mưa rách tả tơi dính bết vào vai. Anh ngồi chồm hổm như kẻ hành khất, hai bàn tay che kín gương mặt, chỉ chừa đôi mắt thăm thẳm, hoang hoải.

 “Anh… Anh làm gì ở đây?” Tôi hỏi, cổ họng khô khốc.

Anh không trả lời, chỉ đẩy cái balo cũ sờn lên bậc thềm, như để chứng minh: “Anh chẳng còn gì để mất.”

Tôi nhìn chiếc balo, đầu óc trống rỗng. Bên trong là gì? Một bộ quần áo? Dăm ba gói mì tôm? Hay những vết sẹo cũ anh mang từ trại giam ra?

Tôi biết anh vừa ra trại, giấy tờ còn chưa ráo mực. Tôi đã nghe người ta xì xầm: “Nó vô tù còn dám vác mặt về xin xỏ con nhỏ đó? Khôn hồn thì tránh xa, dính dáng vô lại khổ.” Tôi nghe hết, nhưng tôi vẫn đứng đây.

Tôi không thể bỏ mặc anh.

Đó là tật xấu của tôi, mẹ tôi bảo vậy. “Mày cứ ôm rơm rạ vào người. Lửa thì cháy tay, còn rạ mục thì cũng mục đời mày.” Nhưng tôi không tin. Tôi cứ tin rằng, người ta chỉ cần một bàn tay níu lại. Chỉ cần một lần ai đó tin họ không hoàn toàn thối rữa. Tôi tự nhận vai trò đó.

Tôi đưa anh vào nhà, mặc cho sàn ướt nhẹp, bùn đất từ giày anh vấy ra nền gạch hoa đã xỉn màu. Tôi đun nước, đưa anh chiếc khăn bông mà cha tôi vẫn hay dùng lau mặt. Lượng run lẩy bẩy như con mèo ướt. Tôi ngồi đối diện anh, ngửi mùi áo mưa trộn mùi mồ hôi và cả mùi ẩm mốc phả ra từ hơi thở anh. Tôi không ghét. Tôi chỉ thấy tội.

 “Anh ăn gì chưa?”  Tôi hỏi, tay xoay xoay cái chén không.

  Anh lắc đầu, giọng khàn đặc:

 “Có gói mì nào không?”

Tôi bắc nồi nước, bẻ đôi gói mì, nêm thêm quả trứng. Mùi hành lá xắt nhuyễn tỏa ra, ấm cúng một cách lạ lùng giữa cái đêm đầy tiếng mưa. Tôi nhìn Lượng húp từng muỗng nước lèo, tay anh run run cầm đũa gắp sợi mì rũ xuống bàn. Lúc ấy tôi đã tự nhủ: “Chỉ cần mình còn ở đây, anh sẽ ổn.”

Tôi không biết đêm ấy, lời tự nhủ ấy giống một sợi dây thòng lọng tôi tự chui đầu vào.

Tôi biết Lượng từ năm tôi mười chín tuổi. Khi ấy tôi vẫn còn là con bé sắp rời quê lên thành phố học cao đẳng kế toán. Tôi hay ra bờ sông ngồi nghịch nước. Lượng lớn hơn tôi bốn tuổi, là thằng con trai trong xóm có tiếng là phá phách. Anh hút thuốc, xăm trổ lộ ra sau cổ áo sơ mi. Người ta nhìn thấy anh thì tránh. Tôi lại thấy anh khác. Anh biết cách lắng nghe tôi than phiền chuyện gia đình. Anh kể cho tôi nghe những buổi chiều đi lượm ve chai, những trận đòn cha dượng giáng xuống lưng. Tôi tin, dưới lớp vỏ bất cần, anh cũng chỉ là một đứa trẻ lớn lên không kịp chín.

Ngày tôi khăn gói đi học, anh dúi vào tay tôi một cái lược nhựa, nhỏ như ngón tay. Anh bảo: “Cầm đi, sau này về còn chải tóc cho gọn. Có người thương thì phải đẹp.” Tôi bật cười. Khi ấy, tôi không nghĩ người thương mà anh nói lại là anh.

Những năm tôi xa nhà, tôi thi thoảng nhận được cuộc gọi của anh, giọng lè nhè vì say rượu. Anh kể về những lần trốn công an, những trận cãi lộn với chủ thầu xây dựng. Anh vào tù vì tội đánh người gây thương tích. Lúc nghe tin, tôi sốc. Tôi tránh mặt anh. Tôi không đủ can đảm nhìn cha mẹ tôi khổ tâm thêm vì đứa con gái duy nhất qua lại với một thằng có tiền án.

Nhưng rồi anh trở về. Và rồi đêm mưa ấy, tôi mở cửa cho anh bước vào đời tôi lần nữa.

Những ngày đầu Lượng ở lại, nhà tôi như chiếc thuyền nan cũ rách. Mẹ tôi tránh không nói chuyện với tôi. Cha tôi ho sù sụ vì bệnh phổi, ông cằn nhằn: “Thằng đó có gì tốt đẹp? Mày muốn khổ cả đời à?” Tôi chỉ lặng im, rót cho cha cốc nước ấm, vuốt tấm chăn sờn.

Khi đêm xuống, tôi nghe tiếng Lượng trở mình. Anh nằm co người trên chiếc ghế xếp, chăn đắp hờ hững. Có lúc tôi nghĩ: “Hay mình cho anh ngủ cùng?” Nhưng tôi không làm vậy. Tôi sợ thứ tình cảm còn chông chênh, không tên, không danh phận ấy sẽ trở thành gánh nặng. Tôi tự vỗ về: “Từ từ rồi mọi thứ sẽ ổn.”

Mùa mưa kéo dài. Lượng xin được việc làm bảo vệ bãi xe, ca đêm. Anh đi tối mịt, sáng mới về, mắt thâm quầng, mùi khói thuốc quấn quanh tóc tai. Tôi nấu sẵn bữa sáng, để phần trên mâm cơm, cắm sẵn bình nước nóng để anh tắm. Tôi dặn anh để ý sức khỏe, đừng hút thuốc nữa. Anh ậm ừ, rồi đâu lại vào đó.

Chưa bao giờ tôi nghĩ mình sẽ sống như vợ chồng với Lượng. Tôi chỉ nghĩ, nếu người ta không còn ai thì tôi không thể đẩy họ ra đường. Nhưng cái tình, cái nghĩa quấn quýt theo từng ngày bưng cơm, rót nước. Tôi thấy lòng mình mềm ra như đất ướt.

Một buổi tối, tôi về muộn sau ca trực, mưa lại đổ. Đèn trong nhà chưa bật. Tôi thấy Lượng ngồi tựa cửa, mái tóc ướt nhẹp, tay cầm chai rượu trắng. Anh ngẩng lên, đôi mắt đục ngầu. Tôi nhìn anh, chỉ thấy tội. Tôi ngồi xuống bên cạnh, tay chạm vào vết sẹo trên cánh tay anh. Anh khẽ rùng mình.

 “Tôi sợ mưa.”  Anh nói nhỏ.

 “Anh ngồi ngoài mưa làm gì?”

 “Anh sợ vào nhà rồi không ra được nữa. Anh sợ mang khổ cho em.”

 “Nếu anh sợ, sao anh không đi?”

Anh im lặng. Tôi biết, anh không còn nơi nào để đi.

Có những đêm tôi không ngủ được. Tôi nằm nghe tiếng thở của Lượng ngoài phòng khách, nghe mùi rượu thoảng qua khe cửa. Mưa ngoài kia vẫn rơi. Tôi nghĩ về con đường tôi đã chọn. Tôi tự dằn lòng: “Mình chịu được. Chỉ cần mình kiên nhẫn, anh sẽ khác. Tội tình gì bỏ rơi người ta khi họ đã chẳng còn gì?”

Nhưng tấm lòng tốt của một đứa con gái trẻ nào có đủ sức chống lại những góc tối của một người đàn ông đã quá quen với thói dựa dẫm? Mỗi sáng Lượng về, tôi nhìn anh vật vờ như bóng ma, thỉnh thoảng nhặt được mẩu giấy ghi nợ lẻ tẻ. Anh xin tôi ít tiền đổ xăng, tôi đưa. Anh xin tiền trả nợ lặt vặt, tôi đưa. Tôi đi làm thêm ca tối, về đến nhà mắt đỏ hoe, vẫn cười khi thấy anh còn chờ mình bưng tô mì gói.

Tôi tin mình đủ kiên nhẫn. Nhưng kiên nhẫn đôi khi không phải đức hạnh, mà là lưỡi dao cắm ngược.

Rồi tôi bắt đầu thấy anh hay biến mất. Có đêm anh không về. Tôi lo lắng, cầm điện thoại gọi thì anh tắt máy. Sáng hôm sau, anh trở về với mùi nước hoa lạ lẫm, vết son mờ trên cổ áo. Anh cười trừ, vuốt má tôi: “Anh xin lỗi. Tụi anh đi hát karaoke, mấy em tiếp viên bày trò.”

Tôi ngồi im, nghe tiếng tim mình vỡ thành mảnh vụn.

Tôi không hỏi thêm. Tôi sợ nghe thêm. Tôi sợ mình sẽ phải chấp nhận điều mà tôi không dám nhìn thẳng: Rằng người đàn ông này, anh ấy không muốn thay đổi. Anh ấy chỉ muốn một chỗ để bám víu, để quay lại mỗi khi những mùi hương xa lạ ngoài kia chán chê.

Nhưng tôi vẫn ôm anh. Tôi tin mình sẽ giữ được anh. Tôi đã lầm.

Tôi còn nhớ ngày cha tôi phát hiện ung thư, tôi sụp đổ. Tôi đứng ngoài hành lang bệnh viện, tay bám lan can lạnh buốt, nghe bác sĩ nói những từ ngữ như nhát dao chém xuống: “Di căn… Xạ trị… Không bảo đảm…” Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ: “Phải có anh ở đây.”

Tôi gọi cho Lượng. Điện thoại đổ chuông, rồi im. Tôi nhắn tin: “Cha em bệnh rồi, em sợ lắm.”

Nửa ngày sau anh mới nhắn lại: “Anh bận đi công chuyện. Em cố gắng lên.”

Tôi không khóc nổi.

Tôi tự nhủ: “Không sao. Còn tôi. Tôi lo được.”

Đêm ấy, tôi soạn vali quần áo, tính đưa cha về quê tĩnh dưỡng. Tôi hỏi Lượng: “Anh có định đón con tôi về ở chung không? Thằng bé ở với ngoại hoài cũng tội.” Anh nhíu mày, rít thuốc rồi lắc đầu: “Ở với ông bà ngoại tốt hơn. Vướng víu lắm. Anh sợ nó không hợp với anh.”

Tôi ngồi thừ. Chén cơm nguội trên bàn, mùi tanh lạnh ngắt. Tôi nghe rõ trong đầu mình có tiếng “cạch”  một thứ gì đó vỡ ra, nhưng tôi vẫn chưa đủ can đảm để buông.

Đêm cuối cùng của cơn mưa dài ấy, tôi mở điện thoại, đọc tin nhắn Lượng gửi: “Em đừng làm phiền anh nữa. Anh sắp cưới người khác. Người ta không hiểu lầm, anh khó xử lắm.”

Tôi cười khẩy. Tôi bật khóc. Tôi lao ra cửa, nhìn mưa như roi quất vào mặt. Tôi tự hỏi: “Bao nhiêu năm tin người ta, mình được gì?”

Trong bóng đêm đặc sệt, tôi nghe tiếng lòng mình thì thầm:

“Anh có xứng với tôi không?

Câu trả lời, tôi tự biết từ lâu rồi. Nhưng phải mất chừng ấy năm, chừng ấy mùa mưa, tôi mới dám gật đầu:

Không. Anh không bao giờ xứng đáng.

You cannot copy content of this page

00:00 / 00:00