Đến khi con cá biến mất, thì đám trẻ cũng đã bị vùi thân nơi đáy sông kia rồi. Vừa mới đây thôi bốn đứa bé còn vui đùa nô nghịch, vậy mà giờ đây chỉ còn là những oan hồn trong làn nước lạnh lẽo.
Đầu giờ chiều,
Bà cụ hàng xóm choàng tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng con bé út khóc, bà lật đật dậy pha sữa cho nó uống. Xong xuôi, bà nhìn quanh mới phát hiện ra đám trẻ lại trốn đi chơi. Chắc mẩn như mọi lần chúng sẽ về sớm thôi, bà lại nằm vào võng, chìm dần vào giấc ngủ cho tới tận xế chiều.
Khi trời nhá nhem tối, vẫn chưa thấy đám trẻ về. Bà cụ bắt đầu lo lắng, đi ra ngoài cổng gọi lớn:
– Ry ơi! Po ơi! Nan ơi! Ha ơi! Mấy đứa đâu rồi? Về đi trời tối rồi!
Nhưng thứ trả lời bà cụ là sự im lặng, chẳng có ai lên tiếng trả lời. Lúc này bà cụ mới tá hỏa, vội vã chống gậy đi từng nhà để hỏi thăm, thứ bà nhận lại chỉ có cái lắc đầu của mọi người. Càng đi, tâm trạng bà cụ tuyệt vọng, bọn trẻ đã mất tích.
Người đàn bà run rẩy ngồi phịch xuống gốc cây khóc nức nở, thấy có người khóc mọi dân làng tò mò bước ra xem. Khi nghe thấy biết rõ nguồn cơn, một người làng gọi điện cho Hải Linh biết, rồi cùng cả làng đi tìm lũ trẻ.
Nhận được tin ấy, Hải Linh bàng hoàng run rẩy, chưa đầy một tuần, năm đứa con mất tích không một dấu vết, cô như điên dại lang thang khắp nơi để tìm các con, cho đến một ngày của nhiều tuần sau…
Đó là một ngày không trăng cũng không sao, chẳng thể nhìn rõ vật gì, thứ ánh sáng duy nhất là chiếc đèn treo ở mui thuyền. Hai vợ chồng người thuyền chài nọ thả lưới xuống sông, chẳng phải chờ lâu, phao trên chiếc lưới động đậy, thấy phao chìm, người vợ tên Nung vui mừng đưa tay vỗ vỗ vào người chồng kêu lên:
– Mình… mình ơi! Hình như có cá to mắc vào lưới rồi.
Nghe thấy vợ gọi, người đàn ông tên Khạ cũng vội vàng quay sang nhìn chiếc lưới.
– Ừ chắc là cá to đấy, chúng ta mau thu lưới thôi!
– Vâng.
Vậy là hai người nhanh chóng kéo lưới lên, chiếc lưới nặng trịch, khiến họ phải gồng mình nhích từng chút một, chiếc thuyền cũng vì sức nặng mà nghiêng về một bên.
Đoán chừng hôm nay sẽ trúng lớn, hai vợ chồng trong lòng khấp khởi cố gắng hết sức để kéo lưới lên. Nhưng niềm vui chưa được bao lâu, thứ trồi lên trên mặt nước không phải là cá, mà là một cái đầu người trương phình biến dạng vì ngâm nước quá lâu.
Khi cài đầu trồi lên hẳn khỏi mặt nước, lưới bỗng nhiên nhẹ bẫng, làm hai vợ chồng ngã nhào về phía sau, chiếc lưới cũng vì thế mà bị hất tung lên trời, mang theo cỗ thi lao về phía hai vợ chồng.
Vì cú rơi ấy, thứ đè lên người họ vỡ ra, dịch từ đó chảy ra lòng thuyền, bốc một lên mùi hôi thối không thể nào tả được.
Đưa tay đẩy vật nặng trịch ra khỏi người mình, do tò mò chẳng biết đó là thứ gì, nên Khạ đưa mắt nhìn qua, nhưng ánh nhìn ấy đã khiến ông kinh hoảng, trước mắt là một cái sọ người, làn da chảy xệ biến dạng, hai con mắt trắng dã lòi ra, dịch đen từ hốc mắt nhểu ra, nhỏ tong tỏng xuống cơ thể mình, dưới ánh đèn cái đầu ấy càng thêm quỷ dị. Trước cảnh tượng đáng sợ ấy, dù là người mạnh mẽ nhất cũng sẽ phải run sợ.
Ông ta hoảng sợ hét lên thất thanh, hất mạnh cái sọ người ấy đi, vùng dậy lao nhanh xuống nước để bơi vào bờ. Nhưng ông ta không ngờ rằng, cái sọ người ấy lại rơi thẳng vào mặt vợ của mình.
Tận mắt nhìn thấy một cái đầu người biến dạng một cách kỳ dị lao thẳng vào mặt mình, là một cảm giác mà ai đã từng trải qua sẽ không bao giờ quên được. Vốn là người yếu bóng vía, lại có bệnh tim, bà Nung không kịp hét lên tiếng nào đã lăn ra bất tỉnh nhân sự.
Lại nói về ông Khạ, sau khi nhảy xuống sông, ông ta sợ hãi gắng sức bơi vào bờ, nhưng chẳng hiểu tại sao, ông Khạ lại có cảm giác như chân mình bị cái gì đó giữ chặt lại không tài nào nhúc nhích được, càng gắng sức giãy dụa thì càng không thể cựa quậy. Bất thình lình cơ thể bị kéo mạnh xuống đáy sông.
Trong lúc cố gắng giãy dụa để tìm cách thoát ra, ông ta đã để bong bóng nhanh chóng thoát ra ngoài, làm cho không khí trong phổi bị rút cạn một cách nhanh chóng, đoàn chừng mình sắp chết, ông Khạ thôi không vùng vẫy nữa, nhắm mắt buông xuôi đón chờ cái chết đến với mình.
Theo phong tục của người Khmer, khi một người biết mình sắp chết, họ sẽ đọc kinh để tự siêu độ cho chính mình, vì vậy ông nhắm mắt chắp tay đọc kinh với hy vọng, sau khi chết linh hồn mình sẽ được trời Phật cứu rỗi, không phải chịu những đày đọa ở chốn nước sâu.
Nhưng lạ thay, khi ông bắt đầu tụng kinh, thì sức kéo nơi cổ chân bắt đầu nhẹ đi và biến mất. Cảm nhận được sự giải thoát, người đàn ông vùng mình ngoi lên khỏi mặt nước nhanh chóng bơi vào bờ.
Khi đã thoát nạn, ông Khạ toan bỏ chạy, thì chợt nhớ đến vợ mình còn đang ở dưới sông, không biết sống chết ra sao, bèn la lớn:
– Có ai không cứu vợ tôi với! Có ai không cứu vợ tôi với!
Nhưng khi nghe tiếng ông ta, đèn thuyền xung quanh đang sáng bỗng nhiên đều tắt phụt.
(Có lẽ nhiều người sẽ thắc mắc tại sao khi ở trên sông, khi nghe tiếng kêu cứu mà họ lại bàn quan không giúp đỡ phải không? Thật ra đây cũng là quan niệm ở nhiều nơi làm nghề sông nước, họ quan niệm rằng, Hà Bá đã chấm người ấy và bắt người ấy đi, nên không ai dám mạo hiểm giúp đỡ. Nếu như cố tình cứu người chết đuối thì chính họ sẽ phải thế mạng thay cho người được cứu. Vì vậy ngư dân không bao giờ dám cứu người chết đuối, vì bất cứ lý do gì.)