CHƯƠNG 1: MUỐI
Trời cuối tháng Bảy, mưa bụi giăng khắp con xóm nhỏ nằm lọt giữa thị xã đang lên cơn sốt đất. Ở cái xóm này, nhà nào cũng sợ dột mái tôn, dột cửa sổ, chỉ riêng nhà bà Xuyến mẹ Đức thì sợ nhất là dột lòng. Mà khổ thay, cái nóc nhà này đã dột suốt hơn ba mươi năm, kể từ ngày bà đẻ ra thằng con trai “không biết nghe lời ai”.
Đức ngồi bệt ngay bậc thềm, lưng dựa cột xiêu vẹo. Mắt hắn lờ đờ nhìn màn mưa bụi bám khắp sân. Đôi dép tổ ong bẩn vứt chỏng chơ, quần jean sờn rách gối, áo phông rộng thùng thình dính vệt cà phê cũ.
Hắn phì phèo điếu thuốc, gõ tàn lên cái lon bia uống dở. Mùi khói quện với mùi tro ẩm, nồng nồng ngai ngái. Trong bếp, bà Xuyến loay hoay nấu cơm. Tay bà lật trở con cá rô đồng, con dao cũ mẻ lưỡi cứ lách cách trên thớt. Thi thoảng bà lại nghiêng đầu, lắng nghe ngoài hiên: thằng con trai bà đã ngồi đó gần một tiếng, nhưng chẳng thèm động tay chân làm việc gì.
Bà Xuyến hơn sáu mươi. Lưng còng, tóc đã pha bạc, cái dáng đi như con tôm gù. Người ngoài nhìn vô ai cũng bảo: “Bà có mỗi thằng con trai, sao nó không biết thương bà?” Bà cười buồn: “Nó là cá không ăn muối, thì tao là muối cũng mặn tới chừng đó thôi…”
Ngày còn trẻ, chồng bà mất sớm vì tai nạn công trình. Một mình bà nuôi Đức từ lúc còn đỏ hỏn. Hồi nhỏ, Đức khôn lanh sớm khôn lanh tới mức mấy đứa trẻ con hàng xóm chả đứa nào dám chơi. Mới lên bảy, nó đã biết xúi bạn lấy trộm xoài nhà người ta, xong còn bày đặt bán lại cho chính chủ. Mười tuổi, nó lén móc ví bà vài đồng lẻ mua kẹo rồi chối bay chối biến. Lớn lên, học hành lởm khởm, đi làm chỗ nào cũng bị đuổi vì tật ăn nói ba hoa, vay nợ bừa bãi.
Thế mà Đức lúc nào cũng vỗ ngực:
“Đời anh sống được, không cần ai dạy.”
Đức rít một hơi thuốc dài, nhìn màn mưa. Hắn lẩm bẩm như nói với chính mình:
“Thiên hạ người ta ba mươi bảy tuổi có nhà có xe, vợ con đề huề. Tao thì… bỏ vợ, đứa con vợ cũ đẩy về cho bà già nuôi. Mà kệ. Đời phải biết lươn thì mới sống được.”
Nghĩ tới đứa con trai nhỏ, Đức cũng hơi nhói. Thằng bé mới sáu tuổi, tên Bin, ngày trước hay bám lấy hắn, đêm nào cũng vòi kể chuyện. Nhưng hắn chán, phó mặc cho vợ cũ. Khi cô ta chịu hết nổi, bế con về gửi thẳng cho bà nội. Thằng nhỏ được cái ngoan, nhưng dường như cũng sớm hiểu bố nó là người thế nào cứ thấy bóng Đức là tránh như tránh tà.
Tiếng dao băm thịt lạch cạch. Bà Xuyến lên tiếng, giọng khản đặc vì bao đêm mất ngủ:
“Mày tính đám cưới đợt nào? Mẹ nghe người ta đồn, con Lan nó mang thai rồi hả?”
Đức cười khẩy, nhổ tàn thuốc xuống đất:
“Trời đất, ai đồn bậy. Nó chưa có gì đâu. Con còn đang tính coi phải đám không.”
Bà Xuyến quay người, nước mắt rịn ra lúc nào không hay. Bà sợ nhất câu này: “Coi phải đám không.” Cách đây tám năm, Đức cũng từng nói y vậy về vợ cũ. Rồi cô gái đó sẩy thai vì ốm nghén mà phải tự đi làm. Đức thì chẳng buồn hỏi han, còn ngang nhiên mang tiền trong nhà cho gái ngoài quán karaoke. Ngày ly dị, mẹ vợ cũ gọi cho bà, giọng khản đặc: “Bác ơi, bác khuyên nó được không? Nó lươn lẹo như vậy con gái bác sống không nổi…”
Bà Xuyến khóc, nhưng lời bà nói ra, Đức nghe tai này lọt tai kia.
Bà Xuyến bê bát cá kho ra hiên. Mùi tiêu, mùi ớt, mùi mắm hòa quyện thơm lừng, lan ra lối ngõ. Đức bốc một miếng cá, nhai nhồm nhoàm, chẳng buồn cầm đũa.
“Mẹ này, con nói rồi, mẹ khỏi lo. Thời buổi này đàn ông ai chả bồ bịch, lươn chút mới sống được. Thiếu gì đứa thích.”
Bà đặt bát canh xuống bàn, nhìn hắn, mắt đục ngầu như sương sớm:
“Cá không ăn muối cá ươn con ạ. Sống mà lươn lẹo thì chẳng ai tin. Yêu ai rồi cũng khổ. Mày định làm khổ con Lan sao?”
Đức xì một tiếng, chống tay ra sau ngả lưng:
“Mẹ không hiểu gì hết. Con Lan nó yêu con thật lòng. Nó bảo chấp nhận con, hiểu con, muốn sửa con.”
“Sửa? Mày có phải đồ gỗ đâu mà sửa! Mày đã bao giờ nghe ai đâu? Tao nói bao nhiêu năm, mày nghe được câu nào?”
Hắn nhìn thẳng mẹ mình, giọng chợt chát:
“Con không cần nghe ai hết. Con sống được là được rồi. Con Lan nó cần con, nó chấp nhận con thì kệ nó. Bố đứa nào dám yêu thằng lươn này chứ? Vậy mà nó yêu đấy. Nó dại thì kệ nó.”
Ngoài trời, mưa bụi thành mưa rào. Tiếng mái tôn dột tí tách bên hiên. Nước chảy lăn trên tấm cửa gỗ đã mọt. Bà Xuyến đứng lặng. Mắt bà sưng húp, tay run run rót bát trà nguội.
“Mày có còn nhớ hồi nhỏ, bố mày mất, tao còng lưng nuôi mày không? Tao khổ, tao chỉ sợ mày lớn lên giống bố mày hồi trẻ bốc đồng, nông nổi. Ai ngờ…”
Nói đến đây, bà nuốt nghẹn. Đức gạt điếu thuốc xuống sàn, đứng dậy vươn vai, giọng khinh khỉnh:
“Thôi mẹ khỏi nhai đi nhai lại. Giờ con ra chỗ Lan chút. Mẹ ăn cơm trước đi.”
Hắn xỏ đôi dép tổ ong, nhảy hai bậc tam cấp rồi biến mất sau màn mưa. Bà Xuyến ngồi bệt xuống nền xi măng ẩm, lưng dựa tường. Bát cơm nguội ngắt, con cá rô kho cũng chẳng còn nóng. Bà múc một muỗng, mặn chát vị muối không chỉ trong cá mà còn trên đầu lưỡi, đắng ngắt.
Tại Nhà Lan
Lan ngồi chờ Đức trong tiệm làm tóc nhỏ. Bàn tay cô lùa tóc khách, miệng vẫn cười nói chuyện nhuộm tẩy, nhưng lòng thì lơ ngơ lạc lõng. Lúc nào cũng vậy, chỉ cần nghĩ tới Đức, tim Lan lại thắt lại. Ai cũng mắng cô dại. Cả bố cô cũng đay nghiến suốt:
“Cá không ăn muối cá ươn, con đừng đổ thêm muối mắm làm gì!”
Nhưng Lan tin. Tin rằng tình yêu sẽ khiến Đức khác đi. Tin rằng đôi mắt buồn buồn và lời hứa “Anh hối hận lắm” là thật.
Đêm đó, Đức ghé tiệm. Hắn đưa Lan đi ăn hủ tiếu gõ. Mưa tạt ướt vạt váy, Lan khúc khích cười, cứ tưởng cảnh này là lãng mạn. Đức vuốt tóc cô, rót vào tai đủ lời mật ngọt:
“Em yên tâm, chỉ cần cưới nhau rồi anh sẽ tu chí. Anh thương em lắm.”
Lan nhìn hắn, lòng dạ vừa rối vừa mừng. Cô chẳng thấy ánh mắt hắn lảng đi khi nhắc chuyện tiền đám cưới. Chẳng thấy tin nhắn trong máy hắn có tên một người phụ nữ khác lưu lấp lửng “Bé Bưởi Karaoke”. Cô chẳng nghe những lời đồn ngoài xóm, ai cũng bảo: “Nó lươn như lươn, đứa nào dám yêu thì khổ ráng chịu.”