Chương 3
Nhiều năm đã trôi qua kể từ ngày tôi gặp chị trên cầu Long Biên.
Tôi đã có một công việc ổn định. Tôi không giàu có, cũng chẳng nổi tiếng. Nhưng tôi sống tử tế. Tôi giảng dạy, viết sách, chia sẻ những điều tôi từng trải qua không để dạy dỗ ai, mà để nhắc người ta rằng: cuộc đời có thể tàn nhẫn, nhưng con người thì vẫn có thể dịu dàng với nhau.
Tôi vẫn giữ bức ảnh cũ chị chụp với hai con. Dán phía sau tấm ảnh là nét chữ xiêu vẹo của chị: “Sống tử tế là đủ. Nếu em làm được, thì thay chị nói với đời rằng: một người như chị cũng từng tồn tại.”
Tôi không liên lạc được với chị nữa sau lần đó. Chị không dùng điện thoại, không có Facebook, không địa chỉ cố định. Tôi từng về quê chị, dò hỏi nhưng chỉ biết chị đã chuyển đi cùng gia đình đến một nơi khác. Tôi nghĩ… có thể chị muốn bắt đầu lại mà không ai biết chị từng là ai.
Có lẽ đó là sự giải thoát cuối cùng mà chị chọn cho mình không phải cái chết, mà là một cuộc đời mới không mang theo định kiến cũ.
Mỗi khi giảng cho sinh viên về những hệ thống phân tầng xã hội, tôi hay kể về chị như một ví dụ sống. Tôi không nói chị tên gì, không kể chị làm nghề gì. Tôi chỉ nói: “Tôi từng được cứu bởi một người phụ nữ tưởng chừng là kẻ thấp hèn nhất trong mắt đời. Nhưng với tôi, chị là một trong những người cao quý nhất tôi từng gặp.”
Có lần, một sinh viên hỏi tôi:
“Thầy nghĩ chị ấy có hạnh phúc không?”
Tôi không biết.
Tôi im lặng một hồi lâu, rồi đáp:
“Chị ấy từng sống qua địa ngục. Nhưng mỗi ngày tỉnh dậy, chị vẫn đi làm, vẫn nuôi con, vẫn giữ trong lòng tình thương vậy thì chị hạnh phúc hơn rất nhiều người rồi.”
Tôi và Hy Vọng vẫn giữ liên lạc.
Con bé đỗ đại học như lời hứa. Nó học giỏi, năng động, tham gia các hoạt động xã hội. Tôi thấy trong nó một phần tâm hồn chị mạnh mẽ, lặng thầm, nhưng không bao giờ chịu gục ngã.
Một hôm, Hy Vọng gửi cho tôi một bức thư tay.
Trong thư, nó viết:
“Thầy ơi, mẹ em mất rồi. Bà bị ung thư gan, phát hiện muộn quá. Nhưng mẹ không đau nhiều. Những ngày cuối, mẹ hay ngồi ngoài hiên, nhắm mắt cười. Mẹ nói: ‘Giờ mẹ đi cũng nhẹ lòng. Chị Hà. của mày sống được đến giờ là nhờ một người tử tế. Hy vọng của mẹ cũng vậy.’”
Tôi đọc đến đó thì nước mắt tôi trào ra. Tôi khóc không phải vì cái chết của chị, mà vì chị đã sống trọn vẹn.
Chị từng nói:
“Tao làm cái nghề bẩn nhất, nhưng sống sạch nhất.”
Và đúng vậy thật.
Tôi không đến viếng chị được. Không kịp. Nhưng tôi biết, chị không cần nhang khói, không cần mộ phần to lớn. Chị sống trong lòng tôi, và trong đứa con mang tên Hy Vọng.
Mỗi khi tôi đi qua cầu Long Biên, tôi vẫn ngẩng nhìn lan can cũ kỹ ấy nơi tôi từng muốn chấm dứt đời mình, và nơi tôi được tái sinh.
Tôi khẽ nói, như một lời cảm ơn muộn màng:
“Chị ơi, em sống tốt rồi. Như lời chị muốn. Chị yên tâm nhé.”
Hết