Chương 1
Nếu không có chị, có lẽ giờ tôi đã xanh cỏ.
Chẳng ai biết điều đó cả. Cũng không cần ai biết.
Những ký ức cũ mèm vẫn thỉnh thoảng bốc mùi trong đầu tôi như mớ giẻ lau bị nhúng nước bẩn rồi quẳng xó bếp thối hoắc, khó chịu, mà dẫu muốn lãng quên thì lại càng nhớ kỹ hơn bao giờ hết.
Ngày đó tôi hai mươi tuổi, vẫn còn cái vẻ bồng bột nửa người lớn nửa trẻ con. Tôi yêu lần đầu, yêu sâu đậm. Người ta nói tuổi trẻ dễ yêu mà cũng dễ chết vì yêu, tôi không phản đối.
Người con gái tôi yêu mất trong một vụ tai nạn giao thông. Cái chết đến nhanh hơn một cơn mưa rào mùa hạ. Một phút trước cô ấy còn nhắn cho tôi: “Anh ơi, em về nấu cơm.”
Một tiếng sau, điện thoại tôi hiện tên cô không phải để nghe giọng mà là để nhận tin báo từ bác sĩ trực: “Chúng tôi rất tiếc…”
Mọi thứ rơi tõm vào hư vô.
Tôi rút khỏi trường đại học. Bạn bè rủ đi nhậu tôi từ chối. Mẹ gọi điện tôi cũng không bắt máy. Có những ngày tôi nằm nguyên trong phòng trọ, nhìn trần nhà đến trẹo cổ. Có những đêm tôi không ngủ, chỉ ngồi nghĩ xem tại sao Thượng đế lại có thể nhẫn tâm như thế.
Tôi không ăn, không nói chuyện. Tôi không còn tin gì nữa.
Và rồi, một buổi sáng sớm, tôi leo lên cầu Long Biên.
Gió thổi thốc vào mặt. Dưới chân là dòng sông Hồng đỏ đục. Trên đầu là một bầu trời xám đen như lòng tôi lúc ấy.
Tôi không khóc. Nước mắt tôi đã cạn từ lâu rồi.
Tôi đứng trên thành cầu, hai tay bấu lấy lan can sắt gỉ. Tôi nghĩ, chỉ cần buông tay… là mọi đau khổ kết thúc. Sẽ không còn phải nhớ đến nụ cười cô ấy nữa, không phải nghe bản nhạc “Mùa Đông Của Anh” rồi bật khóc như thằng điên nữa.
Và đúng cái lúc tôi định nhấc chân lên…
Một bàn tay thô ráp túm lấy cổ áo tôi, giật mạnh.
Tôi chưa kịp phản ứng thì ăn ngay một cái tát. Một cái tát nổ đom đóm mắt.
Rồi thêm cái nữa. Và cái nữa.
Cho đến khi tôi quên béng luôn chuyện định chết. Quên cả tên mình. Quên cả trời đất.
“Thằng ranh con! Muốn chết hả? Mẹ mày nuôi mày hai chục năm để mày chết lãng xẹt thế này à? Tự tử là cách dễ nhất, hèn nhất! Mày có đau bằng tao không?!”
Tôi ngây người nhìn người phụ nữ trước mặt. Mái tóc khô cứng vì mồ hôi, khuôn mặt bợt bạt vì mất ngủ, đôi mắt đầy tia máu. Chị nhìn tôi không phải với ánh mắt thương hại, mà như đang nhìn một thằng ngu.
Kỳ lạ thay, tôi không thấy giận. Tôi cảm thấy… tỉnh. Lần đầu tiên sau bao ngày mê mụ mờ mịt.
Chúng tôi ngồi lại ở một góc cầu. Gió vẫn thổi, người vẫn qua lại. Không ai quan tâm đến một thằng nhóc sắp chết và một người đàn bà chẳng rõ từ đâu.
Chị tên H. Năm đó 28 tuổi. Chị kể đời chị không cần bi kịch hóa chỉ kể, mà như tạc vào đầu tôi từng lát dao thật.
Mồ côi cha mẹ từ bé. Ở với dì dượng. Bị đánh đập, bị lạm dụng. 18 tuổi được “gả” cho một người đàn ông lấy 5 chỉ vàng. May mắn là anh ấy tử tế. Anh yêu chị. Họ có hai đứa con, nghèo nhưng hạnh phúc.
Rồi một ngày, anh bị tai nạn lao động. Không còn khả năng làm việc. Bồi thường bị quản lý ăn chặn. Chị gánh hết mọi thứ. Mẹ chồng, hai con, người chồng bệnh tật, căn nhà chật chội, những bữa cơm thiếu hụt.
Chị xuống Hà Nội. Làm thuê đủ nghề. Rửa bát, bưng bê, lượm ve chai. Không đủ. Chị nhắm mắt bước vào cái nghề người ta không muốn gọi tên.
Chị làm gái.
Nhưng chị nói: “Tao làm cái nghề bẩn nhất, nhưng sống sạch nhất. Tiền tao kiếm được là cho người tao thương. Còn mày, mày muốn chết chỉ vì một mối tình đầu à?”
Tôi cúi đầu. Không phải vì xấu hổ. Mà vì thấy mình đúng là hèn.
Sau buổi sáng hôm đó, tôi không còn quay lại cầu Long Biên nữa.
Chị không để tôi biến mất như một kẻ vô hình giữa thành phố. Chị không nói nhiều, không triết lý đạo đức như sách vở, cũng chẳng thương hại tôi. Chị đến phòng trọ tôi, gõ cửa rầm rầm. Khi tôi lười không mở, chị hét toáng cả xóm trọ lên:
“Mày mà không mở, tao trèo cửa sổ vô đấy!”
Tôi sợ thật, nên đành mở.
Hôm đó, chị mang theo một hộp xôi. Vẫn nóng.
“Ăn đi. Tao biết mày chưa nuốt được cơm, nhưng không ăn thì bụng ai chịu nổi. Mày đói mà chết thì lại phí công tao tát hôm trước.”
Tôi ăn. Ăn trong im lặng. Lần đầu tiên thấy hạt xôi cũng có thể làm người ta cay mắt.
Kể từ hôm đó, ngày nào chị cũng ghé qua. Có khi chỉ để dúi vào tay tôi mấy quả chuối, cái bánh mì khô, hay đơn giản là một cốc trà đá. Chị làm ca đêm ở quán karaoke, sáng mới về. Có hôm chị mệt, mắt thâm quầng, vẫn cố dừng lại ở ngõ nhà trọ tôi, nhìn lên cửa sổ.
“Mày còn sống không đấy?”
Tôi gật. Chị cười hả hê như vừa thắng một trận lớn.
Tôi không hỏi chị lấy đâu ra sức lực để cười. Chị là kiểu người mà những vết đau đã khảm vào da thịt rồi không cần giấu cũng chẳng cần khoe.